Chữ VŨ 雨 có nghĩa là gì?



Chữ VŨ 雨 có nghĩa là gì?

Chữ VŨ 雨 (mưa) là một chữ tượng hình.
Dạng ban đầu có nét ngang trên cùng biểu trưng cho mây trên trời. Bên dưới là hình những giọt nước mưa rơi thành ba hàng đều đặn. Trong quan niệm ước lệ, ba là con số tượng trưng cho số nhiều, nên ba hàng giọt nước ấy chính là biểu tượng cho vô số hạt mưa rơi xuống từ tầng không.

Đến thời triện văn, chữ được cách điệu rõ hơn: khoảng không giữa trời và mây được thể hiện riêng biệt, dưới mây là những giọt nước nối tiếp nhau rơi xuống.

Theo tác giả Đường Hán, trong số hơn một vạn hiện vật giáp cốt bằng mai rùa, xương thú, có hàng ngàn lời hào (lời bói trong Kinh Dịch) liên quan đến mưa. Điều đó chứng tỏ ngay từ thời nhà Thương, con người đã đặc biệt chú ý đến việc quan sát thiên văn. Các hiện tượng mưa, gió, sấm, chớp được quan tâm khám phá vì gắn liền với nông nghiệp và đời sống.

Ngoài vai trò là một chữ đơn, VŨ 雨 còn là một bộ thủ, chủ yếu dùng để biểu nghĩa. Những chữ Hán có bộ VŨ thường liên quan đến các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sương… Ví dụ: 霜 (sương), 雲 (mây).
Từ ngữ thông dụng


VŨ THỦY 雨水: Nước mưa


VŨ QUÍ 雨季: Mùa mưa


VŨ TẢN 雨傘: Dù che mưa


VŨ Y 雨衣: Áo đi mưa (khác với VŨ Y 舞衣: áo mặc để múa hát cho vua quan xem)
Thành ngữ, điển tích liên quan


CẬP THỜI VŨ 及時雨: Mưa đúng lúc, mưa kịp thời cho mùa màng. Đây cũng là ngoại hiệu của Tống Giang, đầu lĩnh Lương Sơn Bạc. Ông nổi tiếng “cứu khổn phò nguy”, giúp đỡ anh hùng hảo hán trong cảnh ngặt nghèo, nên được gọi là Cập Thời Vũ.


PHONG PHONG VŨ VŨ 風風雨雨: Gió gió mưa mưa, chỉ những chuyện đời dồn dập, hết việc này đến việc khác. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu từng mở đầu bài Sự đời bằng hai câu:


Gió gió mưa mưa đã chán phèo,
Sự đời nghĩ đến lại buồn teo!


LỆ HẠ NHƯ VŨ 淚下如雨: Nước mắt rơi như mưa, chỉ nỗi đau thương tột độ. Gợi nhớ đến cảnh Kiều nghe Vương Quan kể chuyện về Đạm Tiên:


Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa!


VŨ VÔ KIỀM TỎA 雨無鈐鎖: Mưa thì không cần khoá giữ mà vẫn lưu được khách. Đây là câu thành ngữ đặc biệt của người Việt Nam, không có trong Hán văn.
Giai thoại văn chương Việt Nam: “Vũ vô kiềm tỏa”

Nguyễn Giản Thanh (1482 – ?), quê làng Ông Mặc (nay là Từ Sơn, Bắc Ninh), nổi tiếng thông minh từ nhỏ, 16 tuổi đã tinh thông kinh sử, sau đỗ Trạng nguyên đời Lê Uy Mục (1508).

Một hôm, khi ông còn đi học, thầy Đàm Thận Huy vừa giảng bài xong thì trời đổ mưa, học trò đều phải ngồi lại. Thầy bèn ra câu đối:


Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
雨無鈐鎖能留客
(Mưa không cần khoá giữ mà vẫn lưu được khách.)

Nguyễn Giản Thanh ứng khẩu đối ngay:


Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
色不波濤易溺人
(Sắc đẹp chẳng có sóng gió gì, mà cũng dễ làm con người ta chìm đắm.)

Thầy Huy khen: “Câu đối hay, có khí chất Trạng nguyên, nhưng e sau này dễ sa vào vòng sắc dục mà hỏng sự nghiệp.” Quả nhiên, về sau Giản Thanh vì mê một giai nhân kinh thành mà mang tiếng ô nhục.

Một học trò khác, Nguyễn Chiêu Huấn, đối rằng:


Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân.
月有彎弓不射人
(Mặt trăng cong như cây cung mà chẳng bắn ai cả.)

Thầy nhận xét: “Không sắc sảo bằng, nhưng hiền hậu, ắt về sau an khang thịnh vượng.” Và đúng như vậy, Huấn chỉ đỗ Bảng nhãn nhưng sống phú quý an nhàn.

Một trò khác lại đối:


Phân bất uy quyền khả sử nhân.
糞不威權可使人
(Phân chẳng có uy quyền gì, mà cũng khiến con người phải đi ngay!)

Thầy cười bảo: “Sau này giàu sang đấy, nhưng là hạng thô bỉ hủ lậu.” Quả nhiên, về sau ông ta trở thành phú hộ giàu có nhưng bị người đời chê bai là thô tục.

👉 Như vậy, từ chữ VŨ 雨, ta không chỉ thấy hình ảnh tượng hình của mưa trong thiên nhiên, mà còn thấy cách người xưa gắn hiện tượng ấy với đời sống, văn chương, điển tích và cả nhân sinh quan.




TỬ VI SCHOOL
Triết học - Tử vi - Dịch lý
Triết học phương Đông ứng dụng

0 Nhận xét